Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước.
Thời gian: từ 28-6 đến 1-7-1996.
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.
Số lượng Đảng viên trong cả nước: 2.130.000.
Số lượng tham dự Đại hội: 1198 đại biểu.
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười.
Ban Chấp hành Trung ương: 170 uỷ viên.
Bộ Chính trị: 19 uỷ viên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc tại Hội trường Ba Đình lịch sử. Về dự Đại hội có 1.176 đồng chí đại biểu nam và nữ đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước hoặc đang công tác ở nước ngoài.
Tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa
Đại hội VII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đánh giá những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm được, những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm trên các lĩnh vực chủ yếu. Trên cơ sở đó, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5 năm 1991-1995.
Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu to lớn: thiết lập chính quyền nhân dân ở cả miền Nam, thống nhất nước nhà; khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.
Trước khi Đại hội thông qua nghị quyết về các văn kiện và toàn văn Điều lệ Đảng (sửa đổi), Đoàn Chủ tịch xin báo cáo kết quả thảo luận và biểu quyết của Đại hội về một số vấn đề quan trọng:
Qua bốn ngày làm việc tích cực, khẩn trương và đầy tinh thần trách nhiệm trước toàn Đảng và trước nhân dân, hôm nay chúng ta đã hoàn thành toàn bộ chương trình Đại hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991
Thời gian: từ 24 đến 27-6-1991
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.155.022
Số lượng tham dự Đại hội: 1.176 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 146 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đề nghị Bộ Ngoại giao tiếp thu các ý kiến tại hội nghị để tổng hợp góp ý cho Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Đại hội chúng ta thành kính hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu mà tư tưởng và đạo đức sống mãi trong sự nghiệp của nhân dân ta với sức giáo dục và động viên đặc biệt sâu xa và nóng hổi, đòi hỏi chúng ta nhìn thẳng vào sự thật và rút ra những kết luận đích đáng, như đã được nêu lên trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày.
Báo cáo do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trình bày ngày 15 tháng 12 năm 1986
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm qua, kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế, xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo này trình bày những phương hướng và mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm 1986-1990, để chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1986-1990.
Đại hội hoàn toàn nhất trí với những kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về đánh giá tình hình, tổng kết kinh nghiệm, xác định nhiệm vụ, mục tiêu và phương hướng, chính sách để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục tiến lên.
Với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân, sau nhiều ngày làm việc tích cực, khẩn trương, hôm nay Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã hoàn thành công việc một cách tốt đẹp.
Thời gian: Từ 15 đến 18-12-1986
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.109.613
Số lượng tham dự Đại hội: 1129 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Văn Linh
Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 124 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới)
Sứ mệnh của Đảng ta là lãnh đạo nhân dân cả nước xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho nước nhà mãi mãi độc lập, tự do. Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, đó là mục đích đấu tranh cách mạng và khẩu hiệu hành động hằng ngày của toàn Đảng.
Đại hội lần thứ nǎm của Đảng tiến hành kiểm điểm việc chấp hành đường lối của Đại hội lần thứ tư, đánh giá đúng thành tựu, khuyết điểm và thực trạng kinh tế, xã hội hiện nay, phân tích rõ nguyên nhân của thắng lợi và khó khǎn, vạch ra những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong tình hình mới, quyết định những chủ trương và biện pháp nhằm phát huy các thế mạnh của đất nước, đưa nền kinh tế vượt qua khó khǎn và tiến lên, nhằm củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.